Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Dịch Vụ Tài Chính Việt Nam

Theo đó, các loại hình DVTC có thể phân chia thành 4 nhóm sau: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường chứng khoán (TTCK), dịch vụ trên thị trường bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính. Việc bố trí phân ngành trên cho thấy, ngoài 2 nhóm ngành khác cụ thể là dịch vụ ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm, sự có mặt của "các DVTC khác" cho thấy tính đa dạng, phong phú và phức tạp của DVTC.

Nhìn lại những đổi mới có tính cách mạng trong hệ thống DVTC của các nước phát triển suốt 30 năm qua cho thấy, với tốc độ tiến triển của lĩnh vực DVTC trong tương lai, thị trường này sẽ có nhiều thay đổi mạnh mẽ đóng góp vào quá trình toàn cầu hóa hoạt động tài chính của thế giới. Qua đó, có thể nhận diện vai trò của thị trường DVTC như sau:

thị trường DVTC góp phần tăng trưởng kinh tế. Lịch sử thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của thời kỳ phát triển DVTC tại các nước phát triển vào cuối thế kỷ XIX đến nay. Với sự đa dạng của các sản phẩm DVTC đã thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, từ đó không chỉ góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp (DN) với các loại dịch vụ như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ chứng khoán, tham gia bảo toàn vốn với các dịch vụ bảo hiểm, giao dịch thanh toán như các dN 83;ch vụ thanh toán qua ngân hàng... mà còn giải quyết nhu cầu đầu tư cho ngân sách quốc gia khi các DN tài chính luôn là khách hàng lớn với nhiều tiềm năng tham gia trên thị trường trái phiếu chính phủ.

Mặt khác, các thị trường DVTC còn là nơi mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách quốc gia, tại các trung tâm tài chính lớn trên thế giới, điển hình như: Hong Kong, New York hàng năm đóng góp khoảng 1/3 nguồn thu thuế cho ngân sách thành phố. Ngoài ra, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều nước đặt khu vực dịch vụ vào vị trí mũi nhọn trong chiến lược phát triển; Từ đó, sự phát triển của thị trường DVTC sẽ góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp tương thích cho nền kinh tế hiện đại và phát triển ngày nay.

thị trường DVTC góp phần gia tăng tiện ích trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao, nhu cầu về quản lý tài sản cá nhân, bảo hiểm rủi ro cho sinh mạng và tài sản đã trở thành một nhu cầu khách quan trong đời sống của công chúng. Từ đó, những dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ quản lý tài sản, các dòng sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ... ngày càng được đa dạng hơn để đáp ứng yêu c& #7847;u của người dân.

Để nâng cao tiện ích của các DVTC phục vụ cho nhu cầu xã hội những thập niên vừa qua những thành tựu khoa học công nghệ đã được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực DVTC từ quản lý rủi ro, quản trị điều hành, thanh toán điện tử, công nghệ thẻ đến các giao dịch ngân hàng online, Internet Banking, Home Banking, Mobile Banking... góp phần nâng cao chất lượng các DVTC đáp ứng theo nhu cầu ngày càng cao của công chúng. Mặt khác, các loại DVTC còn giúp cho công chúng cải thiện đời sống vật chất cũng như giải quy̓ 1;t những khó khăn tạm thời về tài chính. Thị trường DVTC năng động còn góp phần kích thích ý thức tiết kiệm hình thành tập quán đầu tư sinh lợi từ những đồng vốn nhàn rỗi trong dân.

thị trường DVTC góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Sự phong phú của các loại DVTC đã giúp cho nhà đầu tư trên thị trường có nhiều cơ hội lựa chọn kênh đầu tư nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh. Ngoài ra, thông qua những dịch vụ tư vấn tài chính của các DN tài chính giúp cho người đầu tư có thêm nguồn thông tin nhằm khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, với dịch vụ tư vấn kế toán - ki&# 7875;m toán không chỉ góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cho các DN mà còn đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính được minh bạch trước thị trường hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư tài chính.

Ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, một số hệ thống thị trường DVTC đồng bộ dần được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng đa dạng, cả về số lượng cũng như chủng loại của người dân và doanh nghiệp bao gồm: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường tài chính, dịch vụ bảo hiểm kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính. Các chủ thể tham gia thị trường DVTC ngày càng mở rộng, trong đó có các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Giá cả DVTC đang được đổi mới theo hướng tự do hóa, giảm dần sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước.

Theo đó, thị trường DVTC ở Việt Nam trong thời gian qua, đã có bước tăng trưởng tốt, thể chế được hoàn thiện, khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế cũng như chất lượng dịch vụ được tăng cường. Cụ thể như:

Nhìn chung, khung khổ pháp lý về thị trường DVTC ngày càng được hoàn thiện. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và sửa đổi, bổ sung theo hướng: (i) Phát triển TTCK trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, minh bạch bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường; (ii) Phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu c ầu của các tổ chức, cá nhân, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh; (iii) Phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý, điều hành và kiểm soát các nguồn lực của nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngày càng công khai, minh bạch; (iv) Phát triển dịch vụ ngân hàng theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

Trong giai đoạn 2011 - 2024, thị trường vốn ngày càng phát triển về quy mô, cải thiện về chất lượng và hiệu quả hoạt động; đóng góp tích cực vào việc huy động các nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế. Tính đến hết năm 2024, thị trường vốn đạt mức tăng trưởng bình quân 25%/năm, trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân của TTCK đạt 27% và thị trường trái phiếu (TTTP) đạt 24%.

Quy mô thị trường vốn đạt 111,2% GDP, trong đó giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 71,02% GDP, gấp 5,4 lần so với năm 2011; quy mô dư nợ TTTP đạt 39,12% GDP; thanh khoản TTCK được cải thiện rõ rệt, giá trị giao dịch bình quân năm 2024 gấp 2,3 lần so với năm 2011. Quy mô TTCK và TTTP đã vượt các mục tiêu đề ra đến năm 2024 tại Quyết định số 450/QĐ-TTg về Chiến lược tài chính đến năm 2024. Tính đến hết tháng 6/2024, quy mô thị trường vốn tăng khoảng 6,3% so với th&# 7901;i điểm cuối năm 2024.

TTCK sơ cấp khởi sắc từ năm 2013 cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong nước. Theo đó, các DN tăng cường huy động vốn trên TTCK, song song với việc Nhà nước đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn nhà nước tại các DN. Trong đó, một số DNNN được cổ phần hóa và thoái vốn có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả cao như: Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines), Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 1, TN 93;ng công ty Xây dựng Công trình giao thông 4, Tổng công ty Xây dựng đường thủy, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam, Công ty cổ phần bia Sài Gòn... đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Đối với TTTP, khối lượng huy động vốn qua phát hành TPCP bình quân khoảng 185.000 tỷ đồng/năm, đáp ứng 50%-60% nhu cầu huy động vốn cho cân đối ngân sách hàng năm. Thị trường TPCP bảo lãnh đã cơ bản đáp ứng nhu cầu huy động vốn phục vụ cho vay các chương trình tín dụng đầu tư và an sinh xã hội với khối lượng vốn huy động bình quân khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.

TTTP chính quyền địa phương trong giai đoạn 2012 - 2024 đã giúp các địa phương huy động được khoảng 35 nghìn tỷ đồng, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển cho địa phương trong bối cảnh nguồn lực của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương còn hạn chế. Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), khối lượng phát hành bình quân khoảng 80.000 tỷ đồng/năm, kỳ hạn phát hành chủ yếu từ 3-5 năm phù hợp với chu kỳ đầu tư của DN.

TTCK thứ cấp cũng phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phát triển ổn định hơn so với giai đoạn trước đó mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, quy mô thị trường tiếp tục phát triển trên nhiều phương diện. VN-index tăng trưởng liên tục từ mức 413 điểm năm 2012 lên 908,56 điểm vào cuối năm 2024 và ở mức 996,56 điểm vào cuối tháng 9/2024. Thanh khoản trên thị trường liên tục được cải thiện qua các năm, từ mức bình quân 915 tỷ đồng/phiên c& #7911;a năm 2012 lên khoảng 6.500 tỷ đồng/phiên của năm 2024. Bước sang năm 2024, mặc dù có một số thời điểm thị trường "trầm lắng" nhưng tính chung 9 tháng năm 2024 giao dịch bình quân phiên đạt khoảng 4.500 tỷ đồng/phiên.

Đối với TTTP, giao dịch trên thị trường thứ cấp năm 2024 đạt khoảng 8.700 tỷ đồng/phiên, gấp 8 - 9 lần so với năm 2012; tương đương 0,93% dư nợ trái phiếu niêm yết. Giao dịch bình quân trái phiếu trong 9 tháng năm 2024 tương đương với bình quân năm 2024. Hạ tầng giao dịch trên TTTP cũng được cải thiện, giúp giảm thời gian thanh toán, niêm yết trái phiếu từ T+6 (năm 2009) xuống T+2 (năm 2024), hệ thống thanh toán giao dịch TPCP qua Ngân hàng Nhà nước đã chính thức hoạt động từ ngày 1/8/2024, góp ph 847;n duy trì thị trường hoạt động ổn định, hiệu quả.

Cùng với sự phát triển của TTCK sơ cấp và thứ cấp, các sản phẩm dịch vụ mới được nghiên cứu, triển khai đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Cụ thể, TTCK phái sinh vận hành từ tháng 8/2024, mở ra kênh đầu tư mới, hấp dẫn cho nhà đầu tư. Hiện nay, trên thị trường đã có các sản phẩm phái sinh chỉ số VN30, sản phẩm hợp đồng tương lai TPCP, sản phẩm chứng quyền có đảm bảo. Bên cạnh đó, các mục tiêu cơ bản của tái cấu trúc tổ chức kinh doanh ch&# 7913;ng khoán đã đạt được. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán từng bước thu hẹp số lượng và nâng cao chất lượng, tăng cường năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro. Hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát, cưỡng chế thực thi đối với thị trường được nâng cao, niềm tin đối với thị trường được duy trì, góp phần để thị trường tài chính hoạt động lành mạnh, ổn định.

Những năm qua, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ phát triển ổn định. Trong giai đoạn 2024 - 2024, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/năm. Đến cuối năm 2024, doanh thu phí bảo hiểm đạt khoảng 3% GDP đối với doanh thu bảo hiểm gốc; thực hiện chi trả quyền lợi bảo hiểm đạt khoảng 36.415 tỷ đồng; các DN bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế trên 300 nghìn tỷ đồng. Đến tháng 6/2024, thị trường bảo hiểm có khoảng 1.300 sản phẩm được phá ;t triển theo hướng ngày càng đa dạng và linh hoạt đối với tất cả nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe.

Sự phát triển thị trường bảo hiểm trong thời gian qua là kết quả việc tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động của các DN bảo hiểm. Theo đó, một số giải pháp đã được triển khai như đa dạng hóa sở hữu nhằm hạn chế biểu hiện độc quyền, khép kín trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm; nâng cao mức độ an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư của các DN bảo hiểm, đảm bảo vốn chủ sở hữu không thấp hơn vốn điều l ệ đã duy trì khả năng thanh toán ổn định. Bên cạnh đó, các DN bảo hiểm thực hiện đầu tư theo nguyên tắc an toàn, thận trọng, thanh khoản và kiểm soát hạn mức đầu tư; thúc đẩy hoạt động khai thác tại các mảng thị trường tiềm năng, cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng, tăng cường hiệu quả kinh doanh, khuyến khích các DN phát triển sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm; chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh, tăng cư̖ 1;ng quản trị rủi ro DN bảo hiểm theo thông lệ quốc tế.

Dịch vụ kế toán, kiểm toán và công tác quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán được triển khai có hiệu quả, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong nền kinh tế. Doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán toàn thị trường năm 2024 đạt 7.800 tỷ đồng, tăng 20,09% so với năm 2024. Tổng số vốn điều lệ toàn thị trường năm 2024 đạt gần 1.400 tỷ đồng, tăng 3,67% so với năm 2024. Bên cạnh mức tăng trưởng về doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, khung khổ pháp lý v à các chuẩn mực kế toán, kiểm toán đang từng bước sửa đổi, bổ sung và cập nhật theo thông lệ quốc tế.

Dịch vụ ngân hàng phát triển nhanh, có tính cạnh tranh cao với nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Tín dụng được cung cấp dựa trên hiệu quả hoạt động của DN, phương án sản xuất kinh doanh, chú trọng nhiều hơn đến nhóm khách hàng là DN nhỏ và vừa. Các sản phẩm tiết kiệm được phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu của người dân; dịch vụ thanh toán phát triển mạnh, gia tăng tiện ích, giảm thiểu chi phí, thời gian giao dịch cho khách hàng, thúc đẩy thanh to án không dùng tiền mặt.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) được cơ cấu lại theo hướng minh bạch tài chính, đa dạng cấu trúc sở hữu, củng cố năng lực hoạt động, nâng cao kỷ cương, nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Số liệu thống kê cho thấy, tính đến cuối năm 2024, tổng tài sản của các TCTD đạt 10,98 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 200% GDP, gấp 2,36 lần so với quy mô tổng tài sản của các TCTD năm 2011.

Chất lượng cung cấp dịch vụ ngân hàng được nâng cao do các TCTD không ngừng củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính theo hướng an toàn, hiệu quả và từng bước đổi mới quản trị ngân hàng ngày càng phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Sau những tồn tại, yếu kém, tổn thất phát sinh từ nguyên nhân quản trị, điều hành thời gian trước đây, các TCTD đã ý thức và chú trọng hơn trong nâng cao năng lực quản trị ngân hàng, phát triển các hệ thống quản trị ; rủi ro, nâng cao hiệu quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ; rà soát, hoàn thiện hệ thống các chính sách, quy trình, thủ tục về các lĩnh vực nghiệp vụ; nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định, quản lý tín dụng...

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng về tổng thể, thị trường DVTC ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:

Tuy TTCK Việt Nam đã có bước phát triển nhanh nhưng còn tồn tại yếu tố chưa thực sự bền vững. Quy mô của thị trường cổ phiếu vẫn ở mức thấp. So với các thị trường trong khu vực ASEAN, giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu Việt Nam chỉ tương đương 26,8% của Indonesia; 23,3% của Thái Lan; 29,5% của Malaysia; 16,8% của Singapore và 50,1% của Philippines. Số lượng các DN niêm yết và đăng ký giao dịch tuy lớn nhưng quy mô còn nhỏ và không đồng đều (10 cổ phiếu lớn nhất chiếm 55% tổng vốn hó ;a thị trường và 30 cổ phiếu lớn nhất chiếm 80% tổng vốn hóa thị trường).

Các sản phẩm TPDN, các sản phẩm quỹ và phái sinh trên TTCK chưa đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư. Các công ty đại chúng chưa chủ động công khai những thông tin về tình hình hoạt động, tình hình sử dụng vốn, tình hình quản trị công ty, đặc biệt là việc công bố thông tin bằng tiếng Anh để hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới...

Quy mô thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay ở mức thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực (3 - 5%) và thế giới (6 - 7%), chưa có các cơ chế quản lý, giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp trong quản trị, điều hành.

Các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm cho người có thu nhập thấp chưa phát triển; phân khúc khai thác bảo hiểm còn chưa đồng đều. Trong khi đó, các DN bảo hiểm chủ yếu tập trung khai thác tại các thành phố lớn (trên 70% tổng doanh thu) và các đối tượng có thu nhập cao (với phí bảo hiểm bình quân hàng năm của 1 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khai thác mới là 12,5 triệu đồng).

Chất lượng và tính chuyên nghiệp của kênh phân phối đại lý bảo hiểm cũng cần phải tăng cường hơn nữa, như vậy mới có thể đảm bảo tốt vai trò là cầu nối giữa DN bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.

Sự phát triển của thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán hiện nay phụ thuộc vào một số công ty kiểm toán nước ngoài; số lượng các kế toán và kiểm toán viên hành nghề có trình độ nghiệp vụ cao còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán.

Hiện nay, Việt Nam vẫn còn thiếu các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam có quy mô nhỏ, mức độ lành mạnh, năng lực tài chính còn hạn chế, chất lượng cung cấp dịch vụ còn thấp, mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa cao. Trong đó, có một bộ phận các TCTD hoạt động kém hiệu quả, mức độ an toàn thấp; phương thức cạnh tranh còn nặng về giá/lãi suất, chưa coi trọng đúng m 913;c chất lượng dịch vụ.

Việt Nam đặt mục tiêu trong giai đoạn tới là tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đi đôi với đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững. Đối với các ngành dịch vụ nói chung, chủ trương là cơ cấu lại để đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Đối với DVTC, chủ trương đặt ra là thực hiện Đề án tái cấu trúc TTCK và thị trường bảo hiểm đến năm 2 024, Đề án phát triển TTTP đến năm 2024, tầm nhìn đến năm 2030; đẩy mạnh cơ cấu lại toàn diện đối với các TCTD. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển thị trường DVTC Việt Nam theo hướng hiện đại, vận hành theo xu hướng và thông lệ quốc tế.

Nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu trên, đảm bảo phát triển thị trường DVTC Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần đẩy mạnh triển khai một số nội dung sau:

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Luật Chứng khoán sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn theo hướng minh bạch thông tin và xử lý tranh chấp, tạo điều kiện thu hút dòng vốn gián tiếp nước ngoài vào TTCK.

- Tiếp tục triển khai Kế hoạch tái cơ cấu TTCK đồng bộ và toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, an toàn hệ thống, đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các cấu phần của thị trường tài chính. Theo đó, cơ cấu lại sản phẩm trên TTTP nhằm tiếp tục nâng cao quy mô thị trường và đa dạng hóa sản phẩm; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động huy động, sử dụng vốn và công bố thông tin; phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp trong việc kiểm tra chất lượng báo c&# 225;o tài chính; từng bước áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trên TTCK; khuyến khích các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín trên thế giới hoạt động trên TTCK Việt Nam...

Phát triển thị trường TPCP để vừa đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho ngân sách, vừa làm thị trường chuẩn cho thị trường tài chính; đẩy mạnh hoạt động thị trường TPDN, tạo điều kiện cho các DN huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.

- Rà soát, đánh giá triển khai Luật Kinh doanh bảo hiểm để nghiên cứu, xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm phù hợp với thực tiễn; tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các chính sách, đa dạng hóa các sản phẩm bảo hiểm.

- Phát triển và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm để theo kịp sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phục vụ tốt nhất bên mua bảo hiểm, quản lý các tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ dành cho bảo hiểm theo hướng quy định điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ tương ứng với từng loại hình dịch vụ.

Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy kiểm toán độc lập và dịch vụ kế toán phát triển ổn định; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Triển khai việc cập nhật các chuẩn mực kế toán Việt Nam trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Đổi mới chương trình thi và cấp chứng chỉ kế toán viên, kiểm toán viên nhằm mục tiêu đạt sự cô ng nhận của quốc tế và khu vực.

- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng theo thông lệ quốc tế và đáp ứng nhu cầu hội nhập.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD và ban hành các văn bản hướng dẫn, nhằm xác định những chuẩn mực chung đối với việc ứng dụng công nghệ số. Đồng thời, ban hành khuôn khổ pháp lý thử nghiệm cho các sản phẩm, DVTC ngân hàng dựa trên công nghệ mới.

- Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ ngân hàng theo hướng đơn giản hóa, tự động hóa, sử dụng trí tuệ nhận tạo, đảm bảo an ninh bảo mật, làm nền tảng cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của mỗi ngân hàng. Phát triển các phương thức thanh toán điện tử phù hợp với xu hướng thanh toán của thế giới.

- Thực hiện tái cơ cấu các TCTD theo hướng lành mạnh hóa tình hình tài chính; nâng cao năng lực quản trị của các TCTD theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng vốn và cải thiện chất lượng nguồn vốn tự có của các TCTD, thực hiện quyết liệt các giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu, nâng cao chất lượng tài sản...

Next Post Previous Post